SẮT DEXTRAN
Tên
chung quốc tế: Iron dextran.
Mã ATC: Chưa
có.
Loại
thuốc: Thuốc trị thiếu máu.
Dạng
thuốc và hàm lượng
Lọ
màu hổ phách chứa dung dịch có 100 mg sắt (III) nguyên
tố/2 ml (dùng tiêm bắp hoặc tiêm tĩnh mạch).
Dược
lý và cơ chế tác dụng
Sắt
là thành phần của hemoglobin. Sắt dextran được
dùng để chữa các bất thường trong tạo hồng
cầu do thiếu sắt. Sắt không kích thích tạo hồng
cầu, cũng không hiệu chỉnh rối loạn
hemoglobin trong thiếu máu không do thiếu sắt gây ra.
Từ
chỗ tiêm, sắt dextran được hấp thu vào mao mạch
và hệ bạch huyết. Thuốc tách khỏi huyết
tương nhờ các tế bào của hệ lưới nội
mô và phân ly thành sắt và dextran. Sắt đã được
tách ra liên kết ngay với protein để tạo thành
hemosiderin hoặc ferritin, hoặc 1 phần tạo thành
transferrin. Cuối cùng, sắt liên kết với protein, bổ
sung cho dự trữ sắt thiếu hụt và gia nhập
vào hemoglobin.
Sắt
dextran là chế phẩm dạng tiêm, dùng thay thế cho chế
phẩm sắt dạng uống. Tỷ lệ đáp ứng
điều trị đối với thuốc tiêm
tương tự như thuốc uống. Thuốc có thuận
lợi là có thể tạo dự trữ sắt nhanh, trong khi
dùng đường uống phải mất hàng tháng.
Dược
động học
Phần
lớn sắt dextran tiêm bắp được hấp thu
trong vòng 72 giờ. Sắt còn lại được hấp
thu tiếp trong 3 - 4 tuần lễ sau. Ðáp ứng điều
trị thấy rõ sau vài ngày, biểu hiện ở số
lượng hồng cầu lưới tăng lên. Tiêm tĩnh
mạch, thuốc được hấp thu nhanh hơn nhiều.
Trên 90% sắt dextran liên kết với protein huyết
tương. Nửa đời của sắt dextran tiêm tĩnh
mạch là từ 5 đến trên 20 giờ. Tuy nhiên giá trị
nửa đời của thuốc không tương ứng
với độ thanh thải của sắt trong cơ thể.
Khi dùng
sắt dextran trong thời kỳ mang thai một lượng
nhỏ sắt đi vào thai nhi. Chỉ có vết sắt
dextran ở dạng không chuyển hóa phân bố vào sữa mẹ.
Dùng liều từ 500 mg trở xuống, nồng độ
sắt dextran trong huyết tương giảm theo hàm số
mũ với nửa đời của thuốc là khoảng
6 giờ. Chỉ có sắt dextran dạng không chuyển hóa mới
thải trừ vào nước tiểu, mật hoặc phân.
Thẩm tách máu không đào thải sắt đáng kể.
Chỉ
định
Sắt
dextran chỉ được chỉ định trong điều
trị thiếu máu chắc chắn do thiếu sắt mà khi
cho đường uống không có hiệu quả (thí dụ
bệnh spru trong đó sắt không được hấp
thu qua đường tiêu hóa) hoặc không thể thực
hiện được (thí dụ nuôi dưỡng qua
đường tĩnh mạch), được thử
test bằng cách tiêm chậm theo đường định
dùng (bắp hoặc tĩnh mạch) 1 liều 25 mg sắt nguyên
tố trong 5 phút.
Chống
chỉ định
Chống
chỉ định với bất cứ bệnh thiếu
máu nào không do thiếu sắt; ở người có phản ứng
quá mẫn với sắt dextran; người bị tổn
thương nặng ở gan hoặc nhiễm khuẩn thận
cấp tính; bị bệnh nhiễm sắc tố sắt mô
và chứng nhiễm hemosiderin.
Chống
chỉ định dùng sắt dextran bằng đường
tiêm dưới da.
Không
được dùng đồng thời sắt dextran và sắt
dạng uống.
Thận
trọng
Phản
ứng phản vệ với sắt dextran có thể xảy
ra. Phản ứng này là do 1 phản ứng IgG ở người
bệnh đã mẫn cảm với các loại đường
khác, tương tự như mẫn cảm với dextran.
Ðể đề phòng cần điều trị trước
bằng tiêm tĩnh mạch dextran đơn phân (Promit) nhằm
ngăn chặn sự xuất hiện Fab có mặt trên các
globulin miễn dịch lưu hành. Như vậy có thể
phòng ngừa được phản ứng quá mẫn liên
quan đến phức hợp miễn dịch ở người
bệnh đã mẫn cảm với dextran hoặc các loại
đường tương tự. Các thuốc thích hợp
để điều trị phản ứng quá mẫn hoặc
phản ứng dị ứng nghiêm trọng ví dụ
epinephrin (adrenalin), diphenhydramin, và methylprednisolon) phải sẵn
sàng để sử dụng khi dùng sắt dextran. Người
bệnh đang dùng thuốc chẹn beta - adrenergic có thể
không đáp ứng thích đáng với epinephrin (adrenalin), và cần
phải dùng isoproterenol hoặc chất chủ vận beta -
adrenergic tương tự cho những người bệnh
này.
Tiêm sắt
dextran ở người bệnh có tiền sử hay bị
dị ứng và/hoặc hen có thể làm tăng nguy cơ phản
ứng quá mẫn. Vì vậy ở những người bệnh
này, nên tiêm bắp, không được tiêm tĩnh mạch sắt
dextran.
Tiêm sắt
dextran cho người bệnh suy gan nghiêm trọng hoặc
người bị bệnh thận nhiễm khuẩn cấp
tính có thể gây tích lũy thuốc và tăng độc
tính của sắt.
Sau khi
dùng sắt dextran, các tác dụng không mong muốn có thể
gây tai biến tim mạch trầm trọng hơn ở
người bệnh trước đó đã có bệnh tim
mạch.
Dùng thuốc
qua đường tiêm tĩnh mạch ở người bệnh
viêm khớp dạng thấp, có thể gây sốt và làm bệnh
trầm trọng thêm hoặc tái kích hoạt đau khớp
và sưng khớp. Trong trường hợp bệnh mạn
tính, dùng sắt tiêm có thể không đạt kết quả
tối ưu, vì có sự ngăn chặn do viêm, trong vận
chuyển sắt ở lưới nội mô.
Truyền
sắt dextran liều cao có thể làm biến màu huyết
thanh và không nên nhầm cho đây là dấu hiệu của
tan máu.
Dùng chế
phẩm sắt qua đường tiêm không có lý do xác
đáng có thể gây quá thừa dự trữ sắt và hội
chứng tương tự với nhiễm hemosiderin ở
người bệnh thiếu máu không do thiếu sắt (ví
dụ, người bị bệnh hemoglobin và các bệnh thiếu
máu khó chữa đã bị chẩn đoán nhầm là thiếu
máu do thiếu sắt).
Thông
thường không dùng sắt dextran cho trẻ nhỏ dưới
4 tháng tuổi. Ðã có những trường hợp tăng nhiễm
khuẩn Gram âm ở trẻ sơ sinh, sau khi tiêm bắp sắt
dextran, có thể là do Escherichia coli.
Dạng
bào chế sắt dextran có chứa chất bảo quản
phenol chỉ được dùng cho đường tiêm bắp.
Ðịnh
kỳ xác định huyết học (hemoglobin và hematocrit)
là một kỹ thuật đơn giản và chính xác để
theo dõi đáp ứng huyết học, và nên được
sử dụng để hướng dẫn điều trị.
Nên biết rằng dự trữ sắt có thể đến
chậm sau khi xuất hiện hình thái học về máu bình
thường. Sắt huyết thanh, khả năng gắn sắt
toàn phần và tỷ lệ phần trăm bão hòa transferrin
là những thử nghiệm quan trọng khác để phát
hiện và theo dõi tình trạng thiếu sắt.
Thời
kỳ mang thai
Một
lượng sắt nhỏ đi qua nhau thai và tăng nồng
độ trong huyết thanh trẻ sơ sinh khi dùng sắt
dextran cho người mẹ trong vòng 2 tuần trước
khi đẻ. Chưa có các nghiên cứu đầy đủ
có kiểm tra chặt chẽ về việc dùng sắt
dextran ở người mang thai, và không khuyến cáo dùng thuốc
này trong thời kỳ đầu mang thai. Chỉ nên dùng thuốc
trong thời kỳ mang thai khi lợi ích mang lại biện
minh cho những nguy cơ có thể gây cho thai nhi.
Thời
kỳ cho con bú
Chỉ
có vết sắt dextran ở dạng không chuyển hóa phân bố
vào sữa mẹ.
Tác
dụng không mong muốn (ADR)
Dùng sắt
qua đường tiêm có thể gây phản ứng quá mẫn,
đã có tử vong ở một số rất ít trường
hợp. Trong vòng vài phút sau khi tiêm, phản ứng đã xảy
ra với đặc điểm đột ngột khó thở
và / hoặc trụy tim mạch. Do đó phải luôn luôn có sẵn
epinephrin (adrenalin) bên cạnh người bệnh để
cấp cứu kịp thời.
Thường
gặp, ADR > 1/100
Tim mạch:
Ðau ngực, cảm giác thắt ngực, sốc, hạ huyết
áp, nhịp tim nhanh, đỏ bừng, và loạn nhịp
(tiêm tĩnh mạch quá nhanh có thể có phản ứng
đỏ bừng và hạ huyết áp).
Da: Mày
đay, ngứa, ban da, ban xuất huyết, da có màu nâu
(thường mất màu trong vòng vài tuần hoặc vài
tháng).
Tiêu
hóa: Ðau bụng, buồn nôn, nôn, ỉa chảy, vị kim loại.
Cơ
xương: Ðau cơ, đau lưng.
Thần
kinh: Nhức đầu, dị cảm tạm thời, yếu
mệt, ớn lạnh, chóng mặt, cảm giác kiến bò ở
tay hoặc chân, sốt từng cơn, ngất, không nhạy
cảm, mất định hướng, tê cóng.
Sinh dục
- tiết niệu: Ðái máu.
Tại
chỗ: Ðau và đỏ hoặc loét tại chỗ tiêm bắp,
đỏ và viêm tĩnh mạch huyết khối tại chỗ
tiêm tĩnh mạch.
Tác dụng
khác: Vã mồ hôi.
ít gặp,
1/1000 < ADR < 1/100
Thần
kinh: Ớn lạnh.
Cơ
xương: Ðau khớp.
Hô hấp:
Khó thở, co thắt phế quản, tiếng thở khò
khè.
Phản
ứng mẫn cảm: Phản ứng dạng phản vệ
tức thì (phần lớn đều bị khó thở và trụy
tim mạch trong những phút đầu khi tiêm).
Máu/ bạch
huyết: Tăng bạch cầu, bệnh hạch bạch
huyết vùng.
Lưu
ý: Ðau lưng, đau cơ, ớn lạnh, chóng mặt, sốt
vã mồ hôi, nhức đầu, vị kim loại, buồn
nôn hoặc nôn, hoặc tê cóng, đau hoặc cảm giác kiến
bò ở tay hoặc chân do phản ứng chậm khi dùng với
liều khuyến cáo; các tác dụng này có thể xuất hiện
trong khoảng từ 24 đến 48 giờ sau khi dùng thuốc
và giảm bớt trong vòng 3 đến 7 ngày.
Hướng
dẫn cách xử trí ADR
Dự
phòng phản ứng phản vệ: Ðiều đáng lo ngại
nhất là phản ứng phản vệ kháng dextran xảy
ra tức thì, phản ứng có thể gây tử vong mặc
dầu có tiến hành điều trị. Không có test để
dự đoán phản ứng phản vệ. Phản ứng
phản vệ nặng chỉ xảy ra ở những
người đã có sẵn kháng thể IgG kháng dextran. Tiêm
dextran tạo phức hợp miễn dịch, làm khởi
động một chuỗi phản ứng dây chuyền các
hệ thống enzym, ở bạch cầu và tiểu cầu.
Người bệnh chịu tác dụng có hại nặng
đều có hiệu giá kháng thể kháng dextran cao trong máu.
Có thể phòng hay giảm thiểu các tác dụng trên bằng
cách ức chế các vị trí kết hợp trên kháng thể
bằng các mảnh dextran nhỏ, đó là ức chế bằng
hapten. Phương pháp sử dụng là tiêm tĩnh mạch
một lượng dextran đơn phân (Promit, có phân tử
lượng 1000 dalton) trước khi bắt đầu
tiêm sắt dextran; việc này sẽ ngăn chặn kháng thể
kháng dextran có từ trước và đang lưu hành không tiếp
xúc được với các quyết định kháng
nguyên.
Phải
có sẵn adrenalin, diphenhydramin, và methylprednisolon để sử
dụng ngay trong khi tiêm sắt dextran, đặc biệt khi
dùng cho người bị dị ứng hoặc hen. Người
bệnh đang dùng các thuốc chẹn beta, vì không đáp ứng
thỏa đáng với adrenalin, nên có thể cần phải
có sẵn isoproterenol hoặc các chất chủ vận beta -
adrenergic tương tự. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch
huyết khối khi dùng sắt dextran pha trong natri clorid 0,9%
có thể giảm hơn sắt dextran pha trong glucose 5%.
Ðịnh
kỳ theo dõi nồng độ ferritin trong huyết thanh có
thể giúp nhận ra sự tích tụ sắt, dần dần
gây độc do suy giảm thu nhận sắt ở hệ
lưới nội mô thường thấy ở một số
người bệnh (ví dụ, người suy thận mạn,
bệnh Hodgkin, viêm đa khớp dạng thấp).
Liều
lượng và cách dùng
Cách
dùng:
Phải
ngừng uống thuốc sắt trước khi chuyển
sang tiêm thuốc sắt ít nhất 24 giờ.
Ðể
tiêm tĩnh mạch, dùng sắt dextran không pha loãng và tiêm chậm
với tốc độ không quá 1 ml/phút. Phải ngừng
ngay tiêm truyền sắt dextran khi người bệnh phàn
nàn bị tê cóng quanh miệng, cảm giác kiến bò ở
lưng, hoặc đau ngực. Kỹ thuật tiêm tĩnh
mạch đòi hỏi đầu tiên phải tiêm 0,5 ml sắt
dextran trong 5 phút; sau đó theo dõi người bệnh trong một
giờ về dấu hiệu và triệu chứng của phản
ứng phản vệ. Hoặc pha liều sắt dextran
đã tính cho người bệnh với 500 ml natri clorid 0,9%
hoặc glucose 5% (natri clorid có thể được ưa
chuộng hơn do làm giảm tỷ lệ viêm tĩnh mạch
huyết khối) và truyền trong 4 đến 5 giờ sau
khi đã làm test trong 10 phút với tốc độ 10 giọt/phút.
Tuy nhiên, việc sử dụng sắt dextran tiêm tĩnh mạch
phải giới hạn trong bệnh viện và chỉ
được dùng sau khi đã điều trị trước
với dextran đơn phân.
Khi tiêm
bắp, cần tiêm sâu sắt dextran vào góc trên ngoài của
mông; để ngăn chặn thuốc dò dọc theo
đường tiêm, kéo mô dưới da sang một bên
trước khi đâm kim tiêm vào.
Liều
lượng:
Liều
dùng hàng ngày của sắt dextran có thể theo phác đồ
sau cho đến khi đạt được tổng
lượng thuốc tính toán:
Trẻ
nhỏ có thể trọng từ 5 kg trở xuống: 25 mg
(sắt nguyên tố).
Trẻ
em có thể trọng dưới 10 kg: 50 mg (sắt nguyên tố).
Người
bệnh khác: 100 mg (sắt nguyên tố).
Tính liều
tổng cộng theo nồng độ hemoglobin (Hb), theo thể
trọng, và thường theo giới tính của người
bệnh; cũng tính đến phần thêm vào để bổ
sung dự trữ sắt. Thuốc tiêm sắt dextran thường
cung cấp kèm theo bảng liều lượng để
tính cho người bệnh có thể trọng và tình trạng
hemoglobin khác nhau. Giữa các nước, liều lượng
ở những bảng này có thể khác nhau. Những bảng
này cũng không phù hợp, và do đó không nên sử dụng,
để tính liều sắt dextran cho người bị mất
máu trầm trọng.
Ðiều
trị thiếu máu do thiếu sắt:
Có thể
tính liều theo những công thức khác nhau. Sau đây là một
công thức điển hình dùng cho chế phẩm có hàm
lượng thuốc tương đương 50 mg sắt
/ml:
Liều
tính bằng ml, của phụ nữ:
{0,0476 x thể trọng (kg) x [14,8 - mức Hb
(g/100 ml)]} + 6
Liều
tính bằng ml, của nam giới:
{0,0476 x thể trọng (kg) x [14,8 - mức Hb
(g/100 ml)]} + 14
Liều
tính bằng ml, của trẻ em dưới 15 tuổi:
{0,0476 x thể trọng (kg) x [14,8 - mức Hb
(g/100 ml)]}
Ðiều
trị thay thế sắt sau khi mất máu:
Có thể
tính liều dựa trên sự gần đúng sau đây: 1 ml
hồng cầu bình thường, đẳng sắc chứa
1 mg sắt nguyên tố. Xác định nhu cầu sắt
toàn bộ (tính theo số ml dung dịch sắt dextran có hàm
lượng tương đương 50 mg sắt / ml)
như sau:
0,02 x
lượng máu bị mất (ml) x tỉ lệ thể tích
huyết cầu (biểu thị bằng số thập
phân).
Tương
tác thuốc
Giảm
tác dụng khi dùng cùng với cloramphenicol.
Ðộ
ổn định và bảo quản
Bảo
quản thuốc tiêm sắt dextran ở nhiệt độ
15 - 300C, tránh để đông lạnh.
Tương
kỵ
Thuốc
tiêm sắt dextran tương kỵ với oxytetracylin và
sulfadiazin trong dung dịch tiêm tĩnh mạch. Không nên thêm sắt
dextran vào máu để truyền máu.
Quá
liều và xử trí
Quá liều
sắt dextran ít khả năng gây ngộ độc cấp
tính. Tuy nhiên, vượt quá nhu cầu để khôi phục
hemoglobin và bổ sung dự trữ sắt có thể gây nhiễm
hemosiderin.
Triệu
chứng quá liều bao gồm gây trợt niêm mạc
đường tiêu hóa, phù phổi, sốt cao, co giật,
nhịp thở nhanh, nhịp tim nhanh, suy gan và suy thận,
hôn mê, nôn ra máu, ngủ lịm, nhiễm acid; khi nồng
độ sắt trong huyết thanh > 300 microgam/ml, cần
phải điều trị vì gây độc nghiêm trọng.
Mặc
dầu hiếm, nhưng nếu xảy ra quá liều sắt
trầm trọng (khi nồng độ sắt trong huyết
thanh vượt quá khả năng liên kết sắt toàn phần),
thì có thể điều trị bằng deferoxamin. Có thể
tiêm tĩnh mạch chậm thuốc giải độc này
(80 mg/kg thể trọng trong 24 giờ) hoặc tiêm bắp
(40 - 90 mg/kg thể trọng, cứ 8 giờ một lần).
Deferoxamin liên kết với sắt tự do đang lưu
hành ở dạng sắt (III). Chất giải độc
này cũng tạo phức với ion sắt (III) của
ferritin và hemosiderin để tạo thành phức hợp sắt
(III) tan, có màu đỏ (ferrioxamin), bài tiết qua nước
tiểu.
Tránh
dùng deferoxamin cho người đang suy thận tiến triển.
Thẩm
tách không có giá trị loại bỏ riêng sắt trong huyết
thanh, nhưng có thể dùng thẩm tách để tăng bài
tiết phức hợp deferoxamin - sắt, và được
chỉ định khi người bệnh bị vô niệu
hoặc giảm niệu.
Truyền
thay máu có thể cho kết quả tốt.
Thông
tin qui chế
Thuốc
phải được kê đơn và bán theo đơn.