NALOXON
Tên chung quốc tế: Naloxone.
Mã ATC: V03A B15.
Loại thuốc: Thuốc
đối kháng opiat.
Dạng thuốc và hàm
lượng
Ngoài đường tiêu hóa: Thuốc tiêm chứa
naloxon hydroclorid: 0,02 mg/ml; 0,4 mg/ml; 1 mg/ml.
Dược lý và cơ chế
tác dụng
Naloxon hydroclorid là một chất bán tổng
hợp, dẫn xuất từ thebain, có tác dụng đối
kháng opiat. Ngược lại với levalorphan hoặc
nalorphin, naloxon ít hoặc không có hoạt tính chủ vận. Khi dùng với
liều bình thường cho người bệnh gần
đây không dùng opiat, naloxon ít hoặc không có tác dụng
dược lý. Ngay cả liều rất cao (10 lần liều
điều trị thường dùng) gây giảm đau không
đáng kể, chỉ gây ngủ lơ mơ, và không gây những
tác dụng như ức chế hô hấp, rối loạn
tâm thần, thay đổi về tuần hoàn, hoặc co
đồng tử.
Ở người bệnh đã dùng liều lớn
morphin hoặc thuốc giảm đau khác có tác dụng giống
morphin, naloxon đối kháng phần lớn những tác dụng
không mong muốn của opiat. Tần số và thể tích hô hấp
trong 1 phút tăng, áp suất CO2 động mạch
giảm xuống mức bình thường, và huyết áp (nếu
giảm) trở về bình thường. Khác với nalorphin
hoặc levalorphan, naloxon đối kháng sự ức chế
hô hấp nhẹ gây ra do opiat liều nhỏ. Vì thời gian
tác dụng của naloxon thường ngắn hơn của
opiat, nên tác dụng của opiat có thể trở lại khi
tác dụng của naloxon hết.
Naloxon đối kháng với tác dụng an thần hoặc
gây ngủ của opiat. Ý kiến còn mâu thuẫn về vấn
đề naloxon có hoặc không làm thay đổi tác dụng
kích thích hoặc co giật của opiat.
Naloxon không gây nhờn thuốc hoặc không gây nghiện
về mặt thể chất hoặc tâm lý. Mặc dù liều
0,4 mg naloxon hydroclorid tiêm dưới da có thể thúc đẩy
những triệu chứng cai thuốc nặng tiềm tàng ở
người bệnh nghiện lệ thuộc về mặt
thể chất với chế phẩm opiat hoặc
pentazocin, uống naloxon thường không thúc đẩy những
triệu chứng này, trừ khi liều uống vượt
quá 10 mg. Ngay cả liều uống 30 mg naloxon cũng thường
chỉ gây những triệu chứng cai thuốc rất nhẹ.
Chưa biết rõ cơ chế tác dụng đối
kháng opiat của naloxon. Naloxon có lẽ tác động như
một chất đối kháng cạnh tranh ở các thụ
thể của opiat trong hệ thần kinh trung ương;
thuốc được coi là có ái lực cao nhất đối
với thụ thể.
Dược động học
Hấp thu: Naloxon bị khử hoạt
tính nhanh sau khi uống. Mặc dù thuốc có tác dụng khi uống,
nhưng phải uống những liều lớn hơn liều
tiêm cần thiết để có sự đối kháng hoàn
toàn. Trong một nghiên cứu, đã thấy cần uống
một liều duy nhất 3 g
naloxon hydroclorid mới đối kháng có hiệu quả tác
dụng của 50 mg heroin trong 24 giờ.
Naloxon bắt đầu có tác dụng trong vòng 1 - 2
phút sau khi tiêm tĩnh mạch, và trong vòng 2 - 5 phút sau khi tiêm dưới da hoặc
tiêm bắp. Thời gian duy trì tác dụng phụ thuộc
vào liều và đường dùng thuốc. Tiêm bắp tác dụng
kéo dài hơn so với tiêm tĩnh mạch. Trong một nghiên
cứu, thời gian tác dụng kéo dài 45 phút sau khi tiêm tĩnh
mạch naloxon hydroclorid 0,4 mg/70 kg.
Trong một nghiên cứu ở trẻ sơ sinh, sau
khi tiêm vào tĩnh mạch rốn 35 hoặc 70 microgam naloxon
hydroclorid, nồng độ đỉnh huyết
tương của naloxon xuất hiện trong vòng 40 phút và
tương ứng là 4 - 5,4 nanogam/ml và 9,2 - 20,2 nanogam/ml. Trong
cùng nghiên cứu đó, sau khi tiêm bắp 0,2 mg cho trẻ
sơ sinh, nồng độ đỉnh huyết
tương của naloxon xuất hiện trong vòng 0,5 - 2 giờ
và đạt 11,3 - 34,7 nanogam/ml.
Phân bố: Sau khi tiêm, naloxon phân bố
nhanh vào các mô và dịch của cơ thể. Ở chuột
cống, thấy có nồng độ cao trong não, thận,
lách, phổi, tim, cơ và xương.
Thải trừ: Nửa
đời trong huyết tương của naloxon là 60 - 90
phút ở người lớn và khoảng 3 giờ ở trẻ
sơ sinh.
Naloxon chuyển hóa nhanh trong gan, chủ yếu bằng
cách liên hợp với acid glucuronic. Chất chuyển hóa chủ
yếu là naloxon 3 - glucuronid. Naloxon cũng bị khử N -
alkyl và khử nhóm 6 - ceto, sau đó liên hợp với acid
glycuronic. Nghiên cứu với naloxon phóng xạ cho thấy 25
- 40% liều uống hoặc tiêm tĩnh mạch được
bài tiết dưới dạng chất chuyển hóa trong
nước tiểu trong 6 giờ, khoảng 50% trong 24 giờ
và 60 - 70% trong 72 giờ.
Chỉ định
Khi bị ức chế do chế phẩm opiat và khi
dùng chế phẩm opiat quá liều cấp tính.
Naloxon hydroclorid được dùng để điều
trị ức chế hô hấp do các opiat tự nhiên và tổng
hợp như anileridin, codein, diphenoxylat, fentanyl citrat, heroin,
hydromorphon, levorphanol, meperidin, methadon, morphin, oxymorphon, alcaloid
hydroclorid của thuốc phiện đậm đặc và
propoxyphen.
Thuốc cũng điều trị
có hiệu quả ức chế hô hấp do những thuốc
chủ vận từng phần của opiat gồm
butorphanol, nalbuphin, pentazocin, và cyclazocin. Dùng naloxon cần phải
kèm theo những biện pháp hồi sức khác như cho thở
oxy, thở máy, hoặc hô hấp nhân tạo. Naloxon điều trị có hiệu lực chứng ức chế hô hấp
nhẹ hoặc vừa và nặng do opiat.
Naloxon không có hiệu quả trong điều trị
nhiễm độc cấp do levopropoxyphen. Naloxon cũng
được chỉ định để chẩn
đoán khi nghi ngờ quá liều opiat cấp tính.
Không có bằng chứng rõ rệt cho thấy dùng
đồng thời naloxon với một thuốc giảm
đau opiat sẽ ngăn ngừa đưọc suy hô hấp
mà vẫn giữ được tác dụng giảm đau;
trên thực tế nếu dùng đồng thời những
thuốc này, tác dụng giảm đau và an thần có thể
bị giảm.
Có thể dùng naloxon cho trẻ sơ sinh để
điều trị chứng ngạt do dùng opiat cho người
mẹ trong thời gian chuyển dạ và đẻ.
Naloxon còn được dùng để chẩn
đoán người nghiện opiat và để điều
trị nghiện opiat.
Chống chỉ định
Naloxon chống chỉ định với người
bệnh mẫn cảm với thuốc.
Thận trọng
Khi dùng naloxon điều trị quá liều opiat cấp,
vì thời gian tác dụng của một số opiat có thể
dài hơn của naloxon nên phải dùng những liều
naloxon nhắc lại. Phải có sẵn biện pháp hồi
sức khác (ví dụ, duy trì thông khí đầy đủ, hô
hấp nhân tạo, xoa bóp tim, thuốc tăng huyết áp)
để sử dụng khi cần thiết.
Sau khi dùng các opiat trong khi phẫu thuật, phải
tránh dùng liều naloxon quá cao, vì có thể dẫn đến
kích thích, tăng huyết áp, và mất nhiều tác dụng
giảm đau. Làm mất tác dụng của opiat quá nhanh có
thể gây buồn nôn, nôn, ra mồ hôi, hoặc nhịp tim
nhanh.
Phải dùng thận trọng naloxon cho người bệnh
đã biết rõ hoặc nghi ngờ lệ thuộc opiat về
mặt thể chất (kể cả những trẻ mới
sinh từ bà mẹ nghiện opiat), vì thuốc có thể thúc
đẩy những triệu chứng cai nghiện nặng.
Phải dùng thận trọng naloxon cho người bệnh
có bệnh tim mạch từ trước hoặc những
người đang dùng thuốc có khả năng độc
với tim, vì những tác dụng không mong muốn về tim
mạch nghiêm trọng (ví dụ, nhịp nhanh thất và rung
thất) đã xảy ra ở những người bệnh
hậu phẫu, đã dùng naloxon trước khi phẫu thuật.
Thời kỳ mang thai
Ở người, thuốc qua nhau thai dễ dàng. Cho
tới nay, chưa có nghiên cứu đầy đủ và
đã được kiểm tra về dùng naloxon ở
người mang thai. Chỉ nên dùng naloxon cho người
mang thai khi thật cần thiết.
Thời kỳ cho con bú
Vì không biết naloxon có bài tiết vào sữa mẹ
không, cần thận trọng khi dùng naloxon cho người
cho con bú.
Tác dụng không mong muốn
(ADR)
Làm mất đột ngột tác dụng
ức chế của opiat có thể dẫn đến buồn
nôn, nôn, ra mồ hôi, nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, run,
co giật và ngừng tim. ở người bệnh sau mổ,
dùng liều naloxon lớn hơn mức cần thiết có
thể dẫn đến mất tác dụng giảm
đau, và gây kích thích. Giảm huyết áp, tăng huyết
áp, nhịp nhanh thất và rung thất, phù phổi đã xảy
ra do dùng naloxon sau khi mổ.
Thường gặp, ADR > 1/100
Tim mạch: Tăng huyết áp, giảm huyết áp,
nhịp tim nhanh, loạn nhịp thất.
Hệ thần kinh trung ương: Mất
ngủ, dễ bị kích thích, lo âu, triệu chứng cai
nghiện đối với opiat.
Da: Ban.
Dạ dày - ruột: Buồn nôn, nôn.
Mắt: Nhìn mờ.
Khác: Vã mồ hôi.
Hướng dẫn cách xử
trí ADR
Những tác dụng không mong muốn của naloxon có
thể giảm bớt sau khi giảm bớt liều hoặc
ngừng dùng thuốc.
Liều lượng và
cách dùng
Naloxon hydroclorid có thể tiêm tĩnh mạch,
dưới da, tiêm bắp, hoặc truyền tĩnh mạch.
Nên dùng đường tĩnh mạch trong trường hợp
cấp cứu. Trong trường hợp cấp cứu, khi
không dùng được đường tĩnh mạch, một
số ít chứng cứ gợi ý có thể dùng thuốc có
hiệu quả qua ống nội khí quản.
Thuốc tiêm naloxon hydroclorid có ở thị trường
chứa 0,02 mg/ml được dùng để điều
trị ngạt ở trẻ sơ sinh; thuốc tiêm 0,4 mg và
1 mg/ml dùng cho người lớn.
Tiêm truyền tĩnh mạch liên tục naloxon
hydroclorid có thể là biện pháp thích hợp nhất đối
với người bệnh cần dùng các liều cao
hơn, vẫn tái diễn ức chế hô hấp hoặc ức
chế hệ thần kinh sau khi đã điều trị có
kết quả bằng các liều nhắc lại, và/ hoặc
ở những người mà tác dụng kéo dài của opiat
đang được đối kháng. Ðể tiêm truyền
tĩnh mạch liên tục, có thể pha loãng 2mg naloxon
hydroclorid trong 500 ml dung dịch tiêm natri clorid 0,9% hoặc
dextrose 5% để tạo thành dung dịch chứa 0,004
mg/ml (4 microgam/ml). Trước khi dùng, phải kiểm tra kỹ
dung dịch naloxon hydroclorid tiêm tĩnh mạch xem có chất
lạ hoặc biến màu. Chỉ dùng dung dịch thuốc
đã pha loãng trong vòng 24 giờ; thuốc đã pha loãng sau 24
giờ phải loại bỏ.
Ức chế hô hấp do opiat gây nên
Khi dùng naloxon hydroclorid để làm mất một phần
tác dụng ức chế do opiat dùng trong khi phẫu thuật,
liều tiêm tĩnh mạch ban đầu thường là
0,1 - 0,2 mg/kg cho người lớn, hoặc 0,005 - 0,01 mg/kg
cho trẻ em, cách 2 đến 3 phút lại tiêm một liều,
cho tới khi đạt được đáp ứng mong
muốn. Có thể cần những liều bổ sung cách
nhau 1 đến 2 giờ, tùy theo đáp ứng của
người bệnh và tùy theo liều lượng và thời
gian tác dụng của opiat đã dùng. Một số thầy
thuốc lâm sàng khuyên dùng phác đồ cho người lớn
là tiêm tĩnh mạch 0,005 mg/kg và nhắc lại sau 15 phút nếu
cần. Một cách dùng khác là 15 phút sau liều tiêm tĩnh mạch ban đầu, tiêm bắp liều
0,01 mg/kg. Liều naloxon tiêm bắp bổ sung có tác dụng
dài hơn liều tiêm tĩnh mạch nhắc lại. Cũng
dùng cách tiêm truyền tĩnh mạch liên tục naloxon với
liều 0,0037 mg/kg trong mỗi giờ ở người lớn
để hủy tác dụng ức chế hô hấp do opiat
gây ra sau mổ.
Ức chế hô hấp ở trẻ sơ sinh do
opiat:
Khi dùng để điều trị ngạt do opiat ở
trẻ sơ sinh, liều naloxon hydroclorid ban đầu
thường dùng là 0,01 mg/kg, tiêm vào tĩnh mạch rốn
trẻ sơ sinh, cách 2 đến 3 phút lại tiêm một
liều cho tới khi đạt được đáp ứng
mong muốn. Có thể cần các liều bổ sung cách nhau
từ 1 đến 2 giờ tùy theo đáp ứng của trẻ
sơ sinh và tùy theo liều lượng và thời gian tác dụng
của opiat dùng cho người mẹ. Khi không thể dùng
đường tĩnh mạch, có thể tiêm bắp hoặc
dưới da.
Quá liều opiat (đã biết hoặc nghi ngờ)
Ðể điều trị quá liều opiat đã biết
hoặc để hỗ trợ chẩn đoán khi nghi ngờ
quá liều opiat, liều naloxon hydroclorid ban đầu
thường dùng đối với người lớn là
0,4 - 2 mg, tiêm tĩnh mạch; cứ cách 2 đến 3 phút lại
tiêm tiếp một liều nếu cần; nếu không thấy
đáp ứng sau khi cho tổng liều 10 mg, thì trạng
thái ức chế có thể là do một thuốc hoặc một
quá trình bệnh lý không đáp ứng với naloxon. Trẻ
em có thể dùng một liều ban đầu tiêm tĩnh mạch
là 0,01 mg/kg; nếu liều này không gây mức độ
đáp ứng mong muốn, có thể cho một liều tiếp
sau là 0,1 mg/kg. Một cách khác,
đối với trẻ sơ sinh và trẻ em tới 5 tuổi,
dùng liều ban đầu 0,1 mg/kg tiêm tĩnh mạch, tiêm nhắc
lại cứ 2 - 3 phút một lần, khi cần thiết; ở
5 tuổi, có thể dùng liều tối thiểu 2 mg tiêm tĩnh
mạch và tiêm nhắc lại khi cần thiết. Khi không thể
dùng đường tĩnh mạch ở người lớn
hoặc trẻ em, có thể tiêm bắp hoặc dưới
da.
Vì thời gian tác dụng của opiat thường
dài hơn so với naloxon, tác dụng ức chế của
opiat có thể trở lại khi tác dụng của naloxon giảm,
nên có thể cần dùng các liều naloxon bổ sung (hoặc
cần tiêm truyền tĩnh mạch liên tục). Phải
theo dõi chặt chẽ người bệnh trong một ngày
hoặc lâu hơn, không kể đến mức độ
cải thiện bề ngoài. Phác đồ liều lượng
naloxon tiêm truyền tĩnh mạch liên tục chưa
được xác định tốt và phải dò tốc
độ tiêm truyền tùy theo đáp ứng của người
bệnh. Ở người lớn, một số thầy
thuốc lâm sàng khuyên dùng một liều nạp tiêm tĩnh
mạch ban đầu là 0,4 mg, tiếp sau là tiêm truyền
liên tục với tốc độ ban đầu là 0,4
mg/giờ. Một cách khác, các thầy thuốc lâm sàng đã
khuyên dùng một liều nạp tiêm tĩnh mạch là 0,005
mg/kg, tiếp sau là tiêm truyền liên tục 0,0025 mg/kg mỗi
giờ.
Trẻ em có thể cần tốc độ tiêm truyền
tính theo mg/kg/giờ lớn hơn so với người lớn.
Trong nhiều báo cáo, tốc độ tiêm truyền ở trẻ
em xê dịch trong khoảng 0,024 - 0,16 mg/kg mỗi giờ. Một
số thầy thuốc lâm sàng khuyên dùng tốc độ
tiêm truyền ban đầu cho trẻ em là 0,4 mg/giờ.
Các chỉ định khác
Trong chẩn đoán nghiện opiat ở người
lớn, dùng liều 0,16 mg naloxon hydroclorid tiêm bắp. Sau 20 -
30 phút, nếu không thấy rõ những triệu chứng cai
thuốc sau 20 - 30 phút, tiêm tĩnh mạch liều thứ
hai 0,24 mg. Kết quả thử nghiệm được
coi là âm tính nếu không thấy rõ những triệu chứng
cai thuốc trong vòng 30 phút sau liều thứ hai. Những
triệu chứng cai thuốc do naloxon gây nên bắt đầu
giảm sau khi tiêm 20 - 40 phút và về
cơ bản hết trong vòng 1,5 giờ. Nhưng tốt nhất
nên dùng phương pháp hóa học để phát hiện
opiat trong nước tiểu.
Trong điều trị nghiện opiat, trước
đây đã dùng naloxon hydroclorid uống với liều từ
200 mg đến 3 g mỗi ngày và đã đạt một số
kết quả.
Tương tác thuốc
Dùng đồng thời naloxon với những thuốc
giảm đau opiat dẫn đến giảm tác dụng của
các thuốc.
Ðộ ổn định
và bảo quản
Bảo quản thuốc tiêm naloxon hydroclorid ở 15 -
30oC, và tránh ánh sáng. Thuốc tiêm ổn định ở
pH 2,5 - 5. Sau khi pha loãng trong dung dịch tiêm dextrose 5% hoặc
natri clorid 0,9% tới nồng độ 0,004 mg/ml (4
microgam/ml), dung dịch naloxon hydroclorid ổn định
trong 24 giờ; sau 24 giờ, phải loại bỏ bất
cứ dung dịch thuốc nào không dùng đến.
Tương kỵ
Không được trộn lẫn thuốc tiêm
naloxon hydroclorid với những chế phẩm chứa
bisulfit, metabisulfit, những anion có mạch dài hoặc trọng
lượng phân tử cao, hoặc bất cứ dung dịch
nào có pH kiềm. Không được cho thêm các thuốc hoặc
các chất hóa học vào dung dịch naloxon hydroclorid trừ
khi đã xác định được tác dụng của
chúng trên độ ổn định hóa học và vật lý
của dụng dịch naloxon.
Quá liều và xử trí
Không có kinh nghiệm lâm sàng về quá liều naloxon ở
người.
Thông tin qui chế
Naloxon có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt
Nam ban hành lần thứ 4 năm 1999.
Thuốc độc bảng A.