EPINEPHRIN (ADRENALIN)
Tên chung quốc tế: Epinephrine.
Mã ATC: A01A D01, B02B C09, C01C A24,
R03A A01, S01E A01.
Loại thuốc: Thuốc
kích thích giao cảm.
Dạng thuốc và hàm
lượng
Dung dịch tiêm 0,1 mg/ml (0,1:1000), 1 mg/ml (1:1000) epinephrin
dưới dạng muối hydroclorid.
Thuốc nhỏ mắt, dung dịch 1%.
Thuốc phun định liều 280 microgram adrenalin
acid tartrat mỗi lần phun.
Thuốc phối hợp với thuốc chống
hen.
Thuốc phối hợp với thuốc khác.
Dược lý và cơ chế
tác dụng
Adrenalin (epinephrin) là thuốc tác dụng trực tiếp
giống giao cảm, kích thích cả thụ thể alpha và thụ
thể beta, nhưng lên thụ thể beta mạnh hơn thụ
thể alpha. Các tác dụng dược lý của adrenalin rất
phức tạp. Tác dụng của thuốc tương tự
như những gì xảy ra khi kích thích các sợi sau hạch
giao cảm, tức là kích thích các sợi thần kinh tiết
adrenalin. Tác dụng của thuốc thay đổi nhiều
theo liều dùng và phản xạ bù trừ của cơ thể.
Trên tim - mạch, adrenalin có tác dụng làm tăng tần số
và tăng lực bóp cơ tim; làm tăng thể tích tâm thu và
mức tiêu thụ oxy của cơ tim, tăng lưu lượng
mạch vành, tăng sức cản ngoại vi gây tăng huyết
áp tâm thu. Khi được truyền tĩnh mạch, thuốc
làm giảm sức cản ngoại vi và huyết áp tâm
trương, lúc đầu tần số tim tăng,
nhưng sau đó giảm do phản xạ phó giao cảm. Thể
tích huyết tương giảm do dịch không có protein
đi vào khu vực ngoại bào. Adrenalin tăng khả
năng kết dính của tiểu cầu và tăng đông
máu. Trên bộ máy hô hấp, adrenalin kích thích hô hấp nhẹ,
gây giãn phế quản mạnh, nhưng lại làm cho dịch
tiết phế quản quánh hơn. Trên hệ thần kinh
trung ương, tuy adrenalin ít ngấm vào, nhưng vẫn có
tác dụng kích thích, thuốc ít ảnh hưởng lên
lưu lượng tuần hoàn não. Khi nhỏ vào mắt thuốc
ít gây giãn đồng tử. Trên hệ tiêu hóa, thuốc gây
giảm trương lực và giảm bài tiết của ruột,
làm tăng lưu lượng máu tạng. Trên hệ tiết
niệu - sinh dục, adrenalin làm giảm mạnh lưu
lượng máu thận (có thể tới 40%), nhưng mức
lọc của cầu thận ít bị thay đổi; làm
giảm trương lực bàng quang, nhưng lại làm
tăng trương lực cơ trơn, nên có thể dẫn
đến đái khó. Adrenalin ức chế cơn co tử
cung đang mang thai. Trên chuyển hóa, adrenalin gây giảm tiết
insulin, tăng tiết glucagon và tăng tốc độ
phân giải glycogen dẫn đến tăng đường
huyết; gây tăng hoạt tính của renin, tăng nồng
độ acid béo tự do và kali trong huyết tương.
Adrenalin có thể gây tăng chuyển hóa cơ bản 20 -
30% và cùng với co mạch ở da, có thể gây sốt.
Hầu hết adrenalin uống vào bị bất hoạt
bởi enzym phân giải ở ruột và bị chuyển hóa
khi qua gan lần đầu. Thuốc có tác dụng nhanh khi
được tiêm bắp hoặc dưới da (đường
dưới da có chậm hơn tiêm bắp).
Dù được tiêm vào hay do tủy thượng thận
tiết ra, thì phần lớn adrenalin vào tuần hoàn đều
bị bất hoạt rất nhanh do được nhập
vào tế bào thần kinh, do khuếch tán và do enzym phân giải
ở gan và ở các mô. Enzym catechol - O - methyltransferase (COMT) bất
hoạt adrenalin ngoại sinh và adrenalin nội sinh, còn enzym
mono amino oxydase (MAO) chủ yếu bất hoạt catecholamin ở
hệ thần kinh trung ương. Các sản phẩm chuyển
hóa được bài tiết theo nước tiểu.
Chỉ định
Việc chỉ định và sử dụng adrenalin
phải do thầy thuốc có kinh nghiệm thực hiện.
Hồi sức tim phổi.
Cấp cứu choáng phản vệ và choáng dạng phản
vệ (có giãn mạch hệ thống và cung lượng tim
thấp).
Cơn hen ác tính (phối hợp với các thuốc
khác như glucocorticoid, salbutamol).
Glôcôm góc mở tiên phát.
Chống chỉ định
Người bệnh bị gây mê bằng cyclopropan,
halothan hay các thuốc mê nhóm halothan vì có thể gây ra rung thất.
Người bệnh bị cường giáp chưa
được điều trị ổn định.
Người bệnh bị bệnh tim mạch nặng,
tăng huyết áp.
Người bệnh bí đái do tắc nghẽn.
Người bệnh bị glôcôm góc hẹp, người
bệnh có nguy cơ bị glôcôm góc đóng.
Thận trọng
Cấm tuyệt đối tiêm adrenalin chưa
được pha loãng vào tĩnh mạch.
Ở người bệnh quá nhạy cảm với
adrenalin, nhất là người bị cường giáp.
Ở người bệnh mắc các bệnh tim mạch
(thiếu máu cục bộ cơ tim, loạn nhịp hay nhịp
nhanh, bệnh mạch máu có tắc nghẽn (xơ vữa
động mạch, tăng huyết áp, phình động mạch).
Ðau ngực ở người bệnh đã có cơn đau
thắt ngực.
Người bệnh bị đái tháo đường
hay bị glôcôm góc hẹp.
Người bệnh đang dùng glycosid tim, quinidin, thuốc
chống trầm cảm ba vòng.
Nhỏ mũi quá nhiều adrenalin có thể gây ra phản
ứng sung huyết trở lại và tăng chảy nước
mũi.
Không được nhỏ dung dịch adrenalin vào mắt
người bệnh bị glôcôm góc hẹp hoặc người
bệnh có nguy cơ bị glôcôm góc đóng.
Thời kỳ mang thai
Adrenalin đi qua nhau thai và vào vòng tuần hoàn thai nhi với
một lượng rất ít. Người ta không cho rằng
nó có tác dụng gây dị dạng thai nhi ở người.
Thời kỳ cho con bú
Adrenalin được coi là an toàn đối với
người cho con bú.
Tác dụng không mong muốn
(ADR)
Các thuốc kích thích giao cảm có thể gây ra rất
nhiều tác dụng có hại khác nhau. Phần lớn các tác
dụng không mong muốn này giống như những gì xảy
ra khi kích thích quá mạnh lên hệ thần kinh giao cảm.
Thường gặp, ADR > 1/100
Toàn thân: Nhức đầu, mệt mỏi, đổ
mồ hôi.
Tim mạch: Nhịp tim nhanh, tăng huyết áp, hồi
hộp.
Thần kinh: Run, lo âu, chóng mặt.
Tiêu hóa: Tiết nhiều nước bọt.
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100
Tim mạch: Loạn nhịp thất.
Tiêu hóa: Kém ăn, buồn nôn, nôn.
Thần kinh: Sợ hãi, bồn chồn, mất ngủ,
dễ kích thích.
Tiết niệu - sinh dục: Ðái khó, bí đái.
Hô hấp: Khó thở.
Hiếm gặp, ADR < 1/1000
Tim mạch: Xuất huyết não, phù phổi (do
tăng huyết áp), hoại thư (do co mạch), loạn
nhịp tim, đau thắt ngực, tụt huyết áp, chóng
mặt hoa mắt, ngất xỉu, ngừng tim, hoại tử
mô (do adrenalin thoát ra ngoài mạch máu khi tiêm).
Thần kinh: Lú lẫn, rối loạn tâm thần.
Chuyển hóa: Rối loạn chuyển hóa, nhất là
chuyển hóa glucose.
Liều lượng và
cách dùng
Liều lượng phải được tính toán
theo mức độ nặng nhẹ và theo đáp ứng của
từng người bệnh.
Gợi ý một số liều:
Choáng phản vệ: Adrenalin là thuốc ưu tiên lựa
chọn để điều trị choáng phản vệ.
Liều ban đầu nên dùng ở người lớn là
tiêm dưới da hoặc tiêm bắp từ 0,3 đến 0,5
ml dung dịch 1:1000, cứ 20 hoặc 30 phút tiêm nhắc lại
một lần. Nếu tiêm bắp hoặc tiêm dưới
da không có tác dụng, thì phải dùng đường tĩnh
mạch; liều tiêm tĩnh mạch là từ 3 đến 5
ml dung dịch nồng độ 1:10000; các lần cách nhau từ
5 đến 10 phút. Nếu trụy tim mạch nặng thì phải
tiêm trực tiếp adrenalin vào tim. Trong trường hợp
sốc, khó thở nặng hay khi có cản trở ở
đường hô hấp thì nên dùng đường tĩnh
mạch.
Ngừng tim: Adrenalin là thuốc ưu tiên để
điều trị ngừng tim. Liều thường
được khuyên dùng là tiêm tĩnh mạch từ 0,5
đến 1 mg, cách nhau từ 3 đến 5 phút. Với
người đã bị ngừng tim trước khi vào viện
thì có khi phải dùng liều cao hơn nhiều (tới 5 mg
tiêm tĩnh mạch). Có thể truyền adrenalin liên tục
(0,2 đến 0,6 mg/phút), nếu cần thiết. Cũng có
thể tiêm thẳng vào tim 0,1 - 1,0 mg adrenalin pha trong vài ml dung
dịch muối hay dung dịch glucose đẳng
trương. Tiêm adrenalin vào tĩnh mạch, vào khí quản
hay vào tim có tác dụng tốt trong điều trị ngừng
tim do rung thất. Adrenalin chủ yếu được sử
dụng trong trường hợp điều trị rung thất
bằng sốc điện thất
bại. Liều khuyên dùng ở trẻ em là 7 - 27 microgam/kg
(trung bình là 10 microgam/kg).
Sốc nhiễm khuẩn: Trong trường
hợp điều trị sốc nhiễm khuẩn nặng
bằng truyền dịch, truyền dopamin một mình hoặc
kết hợp với dobutamin bị thất bại, thì truyền
adrenalin vào tĩnh mạch (0,5 đến 1 microgam/kg/phút) có
thể có kết quả tốt.
Cơn hen phế quản nặng: Adrenalin là thuốc
hay được dùng nhất để điều trị
cơn hen cấp, do thuốc có tác dụng nhanh và làm giảm
phù nề phế quản nên góp phần cải thiện dung
tích sống. Adrenalin tiêm dưới da thường có tác dụng
ngay tức khắc, nhưng vì tác dụng ngắn nên cứ
20 phút lại phải tiêm lại. Tiêm nhiều liều
adrenalin dưới da có thể duy trì tác dụng của liều
tiêm đầu tiên mà không gây tích lũy thuốc. Liều 0,5
mg adrenalin tiêm dưới da được coi là liều tối
ưu để điều trị cơn hen cấp tính tốt,
mà lại tác động ít nhất lên hệ tim - mạch.
Không nên coi tăng huyết áp và tim nhanh là chống chỉ
định đối với dùng adrenalin liều này, nếu
người bệnh không bị bệnh tăng huyết áp
hay bệnh tim từ trước.
Thở khò khè ở trẻ nhỏ: Adrenalin tiêm dưới
da có tác dụng tốt để điều hòa cơn khó
thở rít ở trẻ dưới 2 tuổi. Adrenalin (1 mg/1
ml) được tiêm với liều 0,01 ml/kg.
Ðục nhân mắt: Nhỏ vào trong nhãn cầu dung dịch
adrenalin 1:1000000 có tác dụng duy trì giãn đồng tử tốt
và an toàn trong lúc mổ.
Ngộ độc cloroquin: Kết hợp diazepam và
adrenalin cùng với hô hấp hỗ trợ có thể có tác dụng
tốt để điều trị ngộ độc
cloroquin. Adrenalin liều 0,25 microgam/kg tiêm tĩnh mạch bằng
bơm tiêm tự động, sau đó truyền với liều
0,25 microgam/kg/phút cho đến khi huyết áp tâm thu cao
hơn 100 mm Hg.
Viêm thanh - khí quản: Adrenalin dạng
khí dung racemic hoặc levo - adrenalin cùng với các thuốc
khác, bao gồm cả các steroid (như dexamethason) và dạng
thuốc phun sương có tác dụng trong điều trị
viêm thanh - khí quản gây khó thở ở trẻ từ
6 tháng đến 6 tuổi.
Glôcôm: Nhỏ adrenalin vào mắt bị glôcôm góc mở
nguyên phát có tác dụng làm giảm kéo dài nhãn áp và gây co mạch
màng tiếp hợp. Trong điều trị glôcôm góc mở
nguyên phát và các glôcôm mạn tính khác, adrenalin thường
được chỉ định bổ sung để chống
co đồng tử. Dùng phối hợp với timolol (sau 2
tuần dùng timolol thì dùng thêm adrenalin) có tác dụng tốt
hơn.
Chảy máu đường tiêu hóa trên: Tiêm adrenalin qua
nội soi có tác dụng tốt để điều trị
các vết loét chảy máu ở người bệnh bị
chảy máu đường tiêu hóa trên, Tiêm 0,5 ml dung dịch
adrenalin (1:10.000) chia làm nhiều mũi vào giữa và xung quanh
ổ chảy máu cho đến khi máu ngừng chảy.
Herpes simplex: Bôi dung dịch adrenalin (1:1000) vào chỗ tổn
thương có tác dụng làm giảm rất nhanh các triệu
chứng và thúc đẩy quá trình liền sẹo. Bôi 30 phút
một lần hoặc tùy yêu cầu nhằm duy trì vùng
được bôi có màu nhợt trong 3 - 4 giờ đầu
tiên.
Giảm đau trong sản khoa: Adrenalin thường
được cho thêm vào các thuốc tê tại chỗ để
tăng giảm đau hoặc để tăng cường
và kéo dài gây tê ngoài màng cứng.
Thêm 0,2 mg adrenalin vào hỗn hợp thuốc gây tê có 10 microgam
sufentanil và 2,5 mg bupivacain có tác dụng kéo dài giảm đau
khi đẻ mà không gây tác dụng phụ có ý nghĩa
lâm sàng cho cả thai nhi lẫn người mẹ. Thêm
adrenalin vào hỗn hợp sufentanil và bupivacain kéo dài đáng kể
thời gian tê và làm giảm cảm giác mà không ảnh hưởng
đến vận động.
Gây tê tại chỗ: Phối hợp adrenalin với
các dung dịch thuốc tê tại chỗ (như tetracain/
adrenalin/cocain hay tetracain/lidocain/adrenalin) có tác dụng giảm
đau tốt trong một số tiểu phẫu thuật
(khâu các vết rách không bị nhiễm khuẩn hay phức
tạp ở mặt và da đầu) ở trẻ em.
Dương vật cương đau (priapism): Tiêm
riêng adrenalin vào dương vật hay kết hợp với
tiêm bắp leuprolid có tác dụng điều trị cơn
đau dương vật. Tiêm vào dương vật 20 ml
adrenalin 1:1.000.000 trong dung dịch natri clorid 0,9%, vừa tiêm,
vừa hút ra.
Tương tác thuốc
Adrenalin và các thuốc chẹn beta: Tác dụng làm
tăng huyết áp của adrenalin tăng lên một cách
đáng kể ở người bệnh dùng thuốc chẹn
beta không chọn lọc như propranolol. Có thể xảy ra
phản ứng tăng huyết áp và/ hoặc chậm nhịp
tim đáng kể, nguy hiểm tới tính mạng. Không
được dùng thuốc ức chế beta không chọn
lọc (như propranolol) cho người bị hen, vì có thể
gây ra co thắt phế quản.
Adrenalin và các thuốc ức chế mono amino oxydase
(MAO): Tác dụng làm tăng huyết áp của adrenalin có thể
không thay đổi hoặc chỉ thay đổi ít ở
người bệnh có dùng thuốc ức chế MAO.
Adrenalin và các thuốc gây mê: Người
bệnh bị gây mê bằng các thuốc mê bay hơi
(cyclopropan, enfluran, halothan, isofluran, fluroxen,
methoxyfluran, diethyl ether) có nguy cơ bị loạn nhịp
tim nếu dùng adrenalin, trừ khi với liều rất nhỏ.
Liều adrenalin không được quá 1 microgam/kg/30 phút nếu
có dùng halothan; không được quá 3 microgam/kg/30 phút nếu
dùng enfluran hay isofluran để đề phòng loạn nhịp
thất. Trẻ em ít bị hơn.
Adrenalin và các alkaloid của Rauwolfia: Khi có các
alkaloid của Rauwolfia, thì tác dụng tăng huyết
áp của adrenalin hơi tăng lên.
Adrenalin và các thuốc chống trầm cảm ba vòng:
Người bệnh được điều trị bằng
thuốc chống trầm cảm ba vòng có đáp ứng rất
mạnh khi được tiêm adrenalin (tăng huyết áp, rối
loạn nhịp tim...). Ngay các thuốc gây tê tại chỗ
có adrenalin cũng không nên dùng cho những người bệnh
này.
Tương kỵ
Adrenalin có thể được pha loãng trong dung dịch
muối đẳng trương (natri clorid 0,9%) hoặc dung
dịch glucose đẳng trương (glucose 5,0%).
Quá liều và xử trí
Do các tác dụng có hại của adrenalin tồn tại
rất ngắn, vì adrenalin bị khử hoạt rất
nhanh trong cơ thể, nên việc điều trị các phản
ứng ngộ độc ở người bệnh nhạy
cảm với thuốc hay do dùng quá liều chủ yếu
là điều trị hỗ trợ. Tiêm ngay thuốc có tác dụng
chẹn alpha (phentolamin), sau đó tiêm thuốc có tác dụng
chẹn beta (propranolol) để chống lại tác dụng
gây co mạch và loạn nhịp của adrenalin. Có thể
dùng thuốc có tác dụng gây giãn mạch nhanh (glyceryl
trinitrat).
Ðộ ổn định
và bảo quản
Bảo quản thuốc ở tủ lạnh (2 đến
8oC), không để nơi nóng và tránh ánh sáng.
Phải bỏ nếu thấy thuốc chuyển sang
mầu nâu - hồng.
Thông tin qui chế
Epinephrin có trong danh mục thuốc thiết yếu
Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999.
Thuốc độc bảng A.
Thành phẩm
giảm độc: Khí dung phân liều có hàm lượng tối
đa là 0,2 mg/1 lần phun; thuốc đặt có hàm lượng
tối đa là 1 mg; thuốc mắt có nồng độ tối
đa là 0,1%.